KHI NÀO KIỂM TRA BÁO CÁO QUYẾT TOÁN TẠI DOANH NGHIỆP?

(HQ Online)- Bạn đọc gửi đến Báo Hải quan câu hỏi về việc nộp báo cáo quyết toán hàng hóa gia công, sản xuất xuất khẩu và việc cơ quan Hải quan kiểm tra quyết toán với DN. Vấn đề này được Cục Hải quan Đồng Nai hướng dẫn cụ thể.
Hoạt động nhiệp vụ tại Cục Hải quan Đồng Nai.

Bạn đọc hỏi: “Theo quy định tại Điều 60 Thông tư 38/2015/TT-BTC thì hết năm tài chính các doanh nghiệp gia công, SXXK, chế xuất sẽ phải nộp báo cáo quyết toán (BCQT) theo mẫu 15, 16 cho cơ quan Hải quan. Tuy nhiên, Thông tư chỉ quy định việc nộp BCQT và kiểm tra BCQT chứ không hề quy định về việc quyết toán. Giữa Hải quan và doanh nghiệp không “quyết toán” với nhau, không kiểm tra và xác nhận lại tính đúng đắn, hợp lý… của toàn bộ nội dung doanh nghiệp đã làm trong 1 năm tài chính đó. Khác hẳn việc cơ quan Thuế nội địa và doanh nghiệp khi quyết toán thuế là có sự “quyết toán” giữa 2 bên. Vậy việc nộp BCQT có ý nghĩa gì khi cơ quan Hải quan không quyết toán với doanh nghiệp, đây thực sự là 1 thiệt thòi cho doanh nghiệp khi họ nộp BCQT mà không được quyết toán.

“Theo quy định tại Khoản 2 Điều 10 và Khoản 2 Điều 12 Nghị định 134/2016/NĐ-CP thì cơ sở để xác định hàng hóa được miễn thuế đối với hàng gia công, SXXK có rất nhiều tiêu chí, trong đó tại điểm c nêu rõ: Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu được sử dụng để gia công, sản xuất sản phẩm đã xuất khẩu. Trị giá hoặc lượng nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu được miễn thuế là trị giá hoặc lượng nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu thực tế được sử dụng để sản xuất sản phẩm gia công thực tế xuất khẩu, được xác định khi quyết toán việc quản lý, sử dụng nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để gia công sản phẩm xuất khẩu theo quy định của pháp luật về hải quan.

“Khi quyết toán, người nộp thuế có trách nhiệm kê khai chính xác, trung thực trị giá hoặc lượng nguyên liệu, vật tư, linh kiện xuất khẩu thực tế sử dụng để sản xuất sản phẩm gia công thực tế nhập khẩu đã được miễn thuế khi làm thủ tục hải quan.

“Như vậy, cơ sở để miễn thuế là việc quyết toán chứ không phải việc nộp BCQT. Doanh nghiệp chỉ thực sự được miễn thuế đối với nguyên liệu vật tư gia công, SXXK khi quyết toán với cơ quan Hải quan. Vậy sau khi nộp BCQT thì bao giờ doanh nghiệp sẽ được quyết toán để được thực sự miễn thuế?”

Trả lời câu hỏi này, Cục Hải quan Đồng Nai hướng dẫn như sau:

Về việc lựa chọn đối tượng kiểm tra báo cáo quyết toán tại trụ sở doanh nghiệp: Căn cứ khoản 4 công văn 1501/TCHQ-GSQL ngày 29/02/2016 của Tổng Cục Hải quan quy định:

“…4. Xử lý báo cáo quyết toán:

a) Các trường hợp kiểm tra báo cáo quyết toán:

Căn cứ qui định tại Điều 41 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP, khoản 5 Điều 60 Thông tư số 38/2015/TT-BTC, Chi cục Hải quan nơi tiếp nhận báo cáo quyết toán thực hiện phân loại doanh nghiệp để áp dụng biện pháp kiểm tra theo quy định. Các trường hợp phải kiểm tra báo cáo quyết toán gồm:

a1) Báo cáo quyết toán của tổ chức, cá nhân nộp lần đầu;

a2) Báo cáo quyết toán có sự chênh lệch bất thường về số liệu so với Hệ thống của cơ quan hải quan;

a3) Kiểm tra sau khi ra quyết định hoàn thuế, không thu thuế tại trụ sở người nộp thuế;

a4) Kiểm tra báo cáo quyết toán trên cơ sở áp dụng quản lý rủi ro, đánh giá tuân thủ pháp luật của tổ chức, cá nhân…”.

Theo quy định trên, sau khi tiếp nhận báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, cơ quan Hải quan sẽ tiến hành phân loại báo cáo quyết toán. Nếu công ty thuộc một trong các trường hợp phải kiểm tra báo cáo quyết toán theo quy định tại các điểm a1, a2, a3, a4 thì cơ quan Hải quan sẽ tiến hành kiểm tra báo cáo quyết toán tại trụ sở của công ty. Riêng trong trường hợp tại điểm a4, cơ quan Hải quan sẽ lựa chọn đối tượng kiểm tra báo cáo quyết toán dựa trên các tiêu chí quản lý rủi ro, đánh giá sự tuân thủ pháp luật các doanh nghiệp. 

Ngoài ra, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đảm bảo việc kiểm tra báo cáo quyết toán hiệu quả, đúng trọng tâm và tránh tình trạng phải kiểm tra nhiều các doanh nghiệp, cơ quan Hải quan sẽ xem xét và chọn đối tượng kiểm tra phù hợp nhất.

Về nội dung kiểm tra báo cáo quyết toán khi kiểm tra tại doanh nghiệp, Hải quan Đồng Nai hướng dẫn: Căn cứ khoản 7 Điều 59 Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính quy định: “Điều 59. Kiểm tra tình hình sử dụng, tồn kho nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị và hàng hoá xuất khẩu”

7. Xử lý kết quả kiểm tra

a) Trường hợp kiểm tra xác định việc sử dụng nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị nhập khẩu phù hợp với sản phẩm sản xuất xuất khẩu, phù hợp với thông tin thông báo cơ sở sản xuất, năng lực sản xuất; kiểm tra xác định thông tin, chứng từ, tài liệu, số lượng hàng hóa còn tồn (trong kho, trên dây chuyền sản xuất, bán thành phẩm, thành phẩm dở dang…) phù hợp với chứng từ kế toán, sổ kế toán, phù hợp với hồ sơ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của tổ chức, cá nhân thì chấp nhận số liệu cung cấp, ban hành kết luận kiểm tra và cập nhật kết quả kiểm tra vào Hệ thống;

b) Trường hợp kiểm tra xác định việc sử dụng nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị nhập khẩu không phù hợp với sản phẩm sản xuất xuất khẩu, không phù hợp với thông tin thông báo cơ sở sản xuất, năng lực sản xuất; kiểm tra xác định thông tin, chứng từ, tài liệu, số lượng hàng hóa còn tồn (trong kho, trên dây chuyền sản xuất, bán thành phẩm, thành phẩm dở dang…) không phù hợp với chứng từ kế toán, sổ kế toán, không phù hợp với hồ sơ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thì yêu cầu tổ chức, cá nhân giải trình.

b.1) Trường hợp cơ quan hải quan chấp nhận nội dung giải trình của tổ chức, cá nhân thì thực hiện theo quy định tại điểm a khoản này;

b.2) Trường hợp cơ quan hải quan không chấp nhận nội dung giải trình của tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp tổ chức, cá nhân không giải trình thì cơ quan căn cứ quy định pháp luật về thuế, pháp luật về hải quan và hồ sơ hiện có để quyết định xử lý về thuế và xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền quyết định xử lý theo quy định pháp luật…”. 

Căn cứ quy định về thực hiện kiểm tra báo cáo quyết toán theo Điều 60 Thông tư 38/2015/TT-BTC, sau khi kết thúc kiểm tra, cơ quan Hải quan sẽ có kết luận về tình hình sử dụng nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị nhập khẩu của công ty theo các quy định kể trên để có các bước xử lý phù hợp.

Tổ tư vấn pháp luật

CƯỚC TÀU BIỂN TIẾP TỤC TĂNG TỪ ĐẦU THÁNG 4

(TBKTSG Online) – Các hãng tàu vừa gửi thông báo đến khách hàng báo tăng giá cước hàng trăm đô la Mỹ mỗi container hàng hóa xuất lẫn nhập khẩu đến và đi từ Việt Nam và các thị trường lớn như Mỹ, EU, Úc.
Hãng tàu Hapag-Lloyd thông báo từ ngày 1-4 tới sẽ tăng giá cước tàu cho hàng hóa xuất khẩu từ các nước, trong đó có Việt Nam, đến Mỹ và Canada với mức tăng 240 đô la Mỹ/container 20 feet, 300 đô la Mỹ/container 40 feet.

Cùng thời điểm, hai hãng tàu container là Cosco và U.S.Lines cũng thông báo tăng giá cước vận chuyển cùng tuyến với mức tăng tương tự.

Ở chiều ngược lại, hãng tàu Hapag-Lloyd và các hãng tàu khác cũng dự định tăng cước từ ngày 15-4 với mức tăng từ 40 đô la Mỹ đến 100 đô la Mỹ đối với container 20 feet và 40 feet. 

Các hãng tàu cũng tăng giá cước đối với các tuyến khác, cụ thể mức tăng đối với hàng hóa xuất khẩu từ các nước châu Á, trong đó có Việt Nam, đến các nước Bắc Âu và Địa Trung Hải là 150 đô la Mỹ đối với container 20 feet và 250 đô la Mỹ đối với container 40 feet từ ngày 1-4.

Cước tàu từ các nước, trong đó có Việt Nam, đến Úc cũng tăng 200 đô la Mỹ đến 400 đô la Mỹ/container đối với các loại container 20 và 40 feet.

Giải thích trong thông báo, các hãng tàu cho biết giá cước tàu biển hiện nay không đủ để bù vào chi phí hoạt động và chi phí vận tải, trong đó có chi phí xăng dầu trong tuyến.

Trong khi đó theo biểu đồ giá dầu thô thế giới, so sánh các loại thành phẩm từ ngày 9-1 đến ngày 19-3, giá dầu thô dao động không đáng kể dưới mốc 100 đô la Mỹ/thùng.

Theo giám đốc một hãng tàu nước ngoài có trụ sở ở quận 1, thực tế giá xăng dầu chỉ là một yếu tố ảnh hưởng đến giá cước tàu; nguyên nhân chủ yếu là các hãng tàu đang tìm cách bù lỗ cho dư thừa công suất của các hãng tàu biển lớn trên thế giới được dự báo sẽ tiếp tục trong 2 năm tới.

“Nguồn cung tàu container so với nhu cầu hàng hóa đang có sự chênh lệch”.

Ông Phan Thông, Tổng thư ký Hiệp hội chủ hàng nhận xét việc tăng cước, phát sinh phụ phí vẫn không được kiểm soát hoặc có cơ chế quản lý phù hợp. Theo ông việc tăng cước còn được thông báo trước nhưng áp dụng các phụ phí ra sao thì không được kiểm soát. Các chủ hàng không nắm được lý do vì sao phát sinh và áp dụng trong bao lâu.

Phạm Thái
Thứ Ba,  25/3/2014, 20:41 (GMT+7)

Nguồn: http://www.thesaigontimes.vn/

CỤ THỂ HÓA TRÁCH NHIỆM CỦA DN CẢNG TRONG GIÁM SÁT HÀNG HÓA XNK

(HQ Online)-Mặc dù Luật Hải quan đã quy định về trách nhiệm của DN kinh doanh cảng, kho, bãi trong hoạt động giám sát hải quan, tuy nhiên các văn bản hướng dẫn lại chưa quy định cụ thể nên còn phát sinh vướng mắc. Chính vì vậy, tại dự thảo thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 38/2015/TT-BTC sẽ quy định cụ thể trách nhiệm của các bên liên quan.

Hoạt động XNK hàng hóa tại cảng Hải Phòng. Ảnh: T.Bình

Hiện nay, hệ thống VNACCS/VCIS thực hiện trên phạm vi toàn quốc đã góp phần giảm thời gian thông quan hàng hóa, mang lại nhiều lợi ích cho DN XNK do thời gian thông quan nhanh (đối với hàng luồng Xanh là 1 – 3 giây, đối với luồng Vàng, luồng Đỏ phụ thuộc vào thời gian kiểm tra hồ sơ và kiểm tra thực tế hàng hóa). Tuy nhiên, để hàng hóa có thể đưa vào hoặc đưa ra khu vực giám sát hải quan, DN vẫn phải có xác nhận bằng văn bản (Danh sách container/hàng hóa đủ điều kiện qua khu vực giám sát hải quan) của cơ quan Hải quan để chuyển cho DN kinh doanh kho, bãi, cảng làm cơ sở để DN kinh doanh kho, bãi, cảng cho phép đưa hàng qua khu vực giám sát theo đúng quy định của Điều 41 Luật Hải quan.

Việc trao đổi thông tin thủ công giữa cơ quan Hải quan và DN kinh doanh kho, bãi, cảng dẫn đến tăng thời gian trao đổi thông tin về hàng hóa đủ điều kiện qua khu vực giám sát. Do đó làm tăng thời gian giải phóng hàng của DN (có thể phát sinh thêm chi phí lưu kho bãi) đồng thời tạo ra độ mất chính xác của thông tin thời gian thực tế hàng hóa đưa vào, đưa ra khu vực giám sát hải quan (cơ quan Hải quan đã xác nhận qua khu vực giám sát trên Hệ thống nhưng có thể hàng hóa vẫn chưa đưa ra khỏi bãi cảng).

Ngoài ra, do có sự tiếp xúc trực tiếp của DN với công chức Hải quan trong việc xác nhận qua khu vực giám sát có thể phát sinh tình trạng công chức giám sát lợi dụng các quy định về giám sát gây phiền hà, nhũng nhiễu cho DN. 

 nguồn thông tin cơ quan Hải quan cần thu thập để thực hiện  giám sát hải quan đối với phương tiện vận tải và hàng hóa chuyên chở trên phương tiện vận tải hiện nay chưa được tổng hợp một cách đầy đủ, xuyên suốt theo lịch sử vận chuyển của hàng hóa mà đang bị chia cắt tại nhiều quy trình cũng như nhiều Hệ thống công nghệ thông tin. Ví dụ, thông tin manifest được khai báo trên Cổng thông tin một cửa và do Hãng tàu, Đại lý hãng tàu hoặc Công ty giao nhận khai báo; việc bốc, xếp, bảo quản, lưu giữ hàng hóa thuộc trách nhiệm của DNKD cảng, kho, bãi nhưng chưa có Hệ thống trao đổi và quản lý; tờ khai trên Hệ thống VNACCS do người khai hải quan khai báo; việc quản lý giám sát thực hiện trên Hệ thống e-Customs nhưng các thông tin này hiện chưa được chia sẻ hoặc chia sẻ rất hạn chế giữa các Hệ thống. 

Khắc phục những bất cập hiện nay, Tổng cục Hải quan sửa đổi, bổ sung quy định giám sát hải quan đối với hàng hóa XK, NK tại dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 38/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính để quy định rõ trách nhiệm của cơ quan Hải quan, DN kinh doanh kho bãi cảng, người khai hải quan.

Theo đó, cơ quan Hải quan có trách nhiệm cung cấp thông tin tờ khai đủ điều kiện qua khu vực giám sát cho cơ quan kinh doanh kho, bãi, cảng.

Đối với DN kinh doanh kho, bãi, cảng có trách nhiệm: Chỉ cho phép vận chuyển hàng hóa ra, vào khu vực cảng, kho, bãi trên cơ sở danh sách hàng hóa đủ điều kiện qua khu vực giám sát do cơ quan Hải quan cung cấp. Cung cấp thông tin hàng hóa NK đã dỡ hàng từ phương tiện vận tải nhập cảnh và thời gian đã ra khỏi kho, bãi, cảng; hàng hóa XK đã đưa vào khu vực kho, bãi, cảng chờ XK và thời điểm được xếp lên phương tiện vận tải xuất cảnh cho cơ quan Hải quan; thông tin về việc thay đổi vị trí hàng hóa, sự nguyên trạng của hàng hóa…

Người khai hải quan chỉ làm việc với DN kinh doanh kho, bãi, cảng để lấy hàng (trừ trường hợp đặc biệt). Người khai hải quan cũng không phải in mẫu 29/DSCT/GSQL Phụ lục V đối với hàng hóa vận chuyển bằng container và mẫu 30/DSHH/GSQL Phụ lục V đối với hàng hóa khác (chỉ in khi hệ thống trao đổi với cảng gặp sự cố và những địa điểm chưa có kết nối cảng).

Hiện tại, cơ quan Hải quan đã thực hiện kết nối, trao đổi thông tin với cơ quan kinh doanh cảng, kho, bãi tại 9 cảng ở Hải Phòng, tại cảng Cát Lái- TP. Hồ Chí Minh và cảng Tiên Sa-Đà Nẵng.

N.Linh

ẤN ĐỘ HỦY LỆNH TẠM NGƯNG NHẬP MỘT SỐ NÔNG SẢN TỪ VIỆT NAM

(HQ Online)- Ấn Độ sẽ tiếp tục nhập khẩu các mặt hàng nông sản từ Việt Nam là hồ tiêu, cà phê, khoai mỳ (sắn), quế và thanh long. 

Giá hồ tiêu thời gian qua liên tục giảm do lệnh cấm nhập khẩu của Ấn Độ Ảnh: Internet.

Sau khi nhận được thông báo của Ấn Độ về việc tạm thời không nhập khẩu một số nông sản từ Việt Nam, gồm: Hồ tiêu, cà phê, khoai mỳ (sắn), quế và thanh long, Bộ Công Thương đã có công hàm đề nghị phía Ấn Độ tuân thủ thông lệ quốc tế cũng như sớm bãi bỏ việc tạm dừng nhập khẩu các mặt hàng của Việt Nam.

Mới đây, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Đại sứ quán Ấn Độ đã có buổi làm việc và đi đến thống nhất: Ấn Độ sẽ hủy bỏ lệnh tạm ngưng nhập khẩu các mặt hàng nông sản từ Việt Nam là hồ tiêu, cà phê, khoai mỳ (sắn), quế và thanh long. Đổi lại, Việt Nam cũng điều chỉnh Quyết định 558/QĐ-BNN-BVTV về việc tạm ngừng nhập khẩu lạc (Arachis hypogaea), hạt muồng (Cassia spp.), hạt ca cao (Theobroma cacao), hạt đậu côve (Phaseolus spp.) và quả me (Tamarindus indica) từ Ấn Độ do có nguy cơ cao nhiễm mọt serratus Caryedon Olivier.

Theo thông tin từ Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA), trong khoảng thời gian Ấn Độ có lệnh tạm ngưng nhập khẩu, giá hồ tiêu giảm liên tục. Vì thế, với việc Ấn Độ đồng ý gỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu một số mặt hàng nông sản, trong đó có hồ tiêu của Việt Nam, nhiều khả năng  giá hồ tiêu sẽ không giảm nữa.

Xuân Thảo

XÂY DỰNG 18 SỔ TAY NGHIỆP VỤ HẢI QUAN

(HQ Online)- Tổng cục Hải quan đang lên kế hoạch xây dựng 18 sổ tay nghiệp vụ cơ bản trong năm 2017, nhằm hướng dẫn thao tác cụ thể cho CBCC thực hiện tại vị trí việc làm tương ứng.

Hoạt động nghiệp vụ tại Chi cục Hải quan Vĩnh Phúc. Ảnh: N.Linh

Danh sách các sổ tay nghiệp vụ cơ bản được Tổng cục Hải quan ban hành tại Quyết định 977/QĐ-TCHQ về việc ban hành Kế hoạch xây dựng sổ tay nghiệp vụ năm 2017.

Theo đó, trong giai đoạn 1, Tổng cục Hải quan sẽ xây dựng sổ tay nghiệp vụ cơ bản ở các lĩnh vực như: Giám sát quản lý; thuế XNK; kiểm tra sau thông quan; quản lý rủi ro; chống buôn lậu; pháp chế; kiểm định hải quan.

Chẳng hạn, trong lĩnh vực giám sát quản lý sẽ xây dựng các sổ tay thực hiện thủ tục thông quan hàng hóa XNK (cấp chi cục hải quan), phần: Kỹ năng kiểm tra hồ sơ hải quan và xử lý kết quả kiểm tra, kỹ năng kiểm tra thực tế hàng hóa và xử lý kết quả kiểm tra; sổ tay giám sát hải quan (cấp chi cục hải quan).

Trong lĩnh vực thuế sẽ xây dựng sổ tay thực hiện thủ tục thông quan hàng hóa XNK (cấp chi cục hải quan), phần: kỹ năng kiểm tra xác định trị giá tính thuế, kỹ năng phân loại hàng hóa XNK, kỹ năng áp dụng mức thuế đối với hàng hóa XNK; sổ tay quản lý thuế (cấp chi cục hải quan): Kỹ năng thực hiện nghiệp vụ chính sách thuế đối với hàng hóa XNK.

Đối với lĩnh vực kiểm tra sau thông quan, sẽ xây dựng sổ tay nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan cấp Tổng cục. 

Trong lĩnh vực quản lý rủi ro, các sổ tay được xây dựng gồm: Quản lý tiêu chí quản lý rủi ro; thực hiện đánh giá tuân thủ DN; quản lý, vận hành hệ thống thông tin quản lý rủi ro; tham mưu thực hiện về công tác quản lý tuân thủ (cấp Cục); quản lý hệ thống thông tin quản lý rủi ro (cấp Cục); quản lý rủi ro (cấp chi cục).

Lĩnh vực điều tra chống buôn lậu xây dựng các sổ tay: Tham mưu nghiệp vụ kiểm soát hải quan; tham mưu xử lý vi phạm; kiểm soát chống buôn lậu hàng hóa; kiểm soát bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và chống hàng giả; kiểm soát chống buôn lậu ma túy. 

Trong lĩnh vực pháp chế sẽ xây dựng sổ tay xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại (cấp cục hải quan); lĩnh vực kiểm định hải quan xây dựng sổ tay kiểm định hải quan.

Trong giai đoạn 2, ngành Hải quan sẽ triển khai ứng dụng các sổ tay nghiệp vụ nêu trên trong toàn ngành. 

Hiện nay, Tổng cục Hải quan đã ban hành các quy trình nghiệp vụ, quy định các bước cần thực hiện đối với các nghiệp vụ cơ bản của Ngành. Theo xu thế quản lý mới, việc tổ chức công việc được thực hiện theo từng vị trí việc làm. Mỗi vị trí việc làm đều có bản mô tả công việc trong đó nêu rõ công chức hải quan phải làm gì, phải phối hợp, phải liên hệ với ai trong quá trình xử lý công việc.

Mỗi công chức tại một vị trí việc làm thường phải thực hiện một bước/một số bước của một hoặc nhiều quy trình, toàn bộ một hoặc nhiều quy trình nghiệp vụ khác nhau.

Việc xây dựng sổ tay nghiệp vụ cho từng vị trí việc làm với nội dung quy định cụ thể các thao tác phải thực hiện tại vị trí việc làm đó đi kèm với cơ sở dữ liệu bao gồm hệ thông kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và bài học kinh nghiệm liên quan là cơ sở giúp công chức hải quan thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Đồng thời đây cũng là cơ sở để giám sát kiểm tra, kiểm soát hiệu quả công việc.

N.Linh

THÍ ĐIỂM VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA TRUNG CHUYỂN GIỮA CÁC CẢNG BIỂN QUỐC TẾ

(HQ Online)- Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đồng ý đề nghị của Bộ Tài chính về việc thí điểm hàng hóa trung chuyển được vận chuyển giữa các cảng biển quốc tế có khu vực trung chuyển áp dụng cho cụm cảng khu vực TP.HCM và Cái Mép – Thị Vải để xuất khẩu.

Cảng Cái Lân- Quảng Ninh. Ảnh: M.Hùng

Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính hướng dẫn thủ tục hải quan để thực hiện, bảo đảm quản lý chặt chẽ; đồng thời khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định số 08/2015/NĐ-CP, bảo đảm phù hợp, tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, theo trình tự thủ tục rút gọn.

Trước mắt, thủ tục áp dụng đối với hàng hóa quá cảnh, trung chuyển thực hiện theo quy định của Nghị định số 187/2013/NĐ-CP và Nghị định số 08/2015/NĐ-CP của Chính phủ.

Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, các cơ quan liên quan khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy định về cấp phép quá cảnh, trung chuyển hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, đáp ứng yêu cầu thực tế.

Hương Dịu

DỰ ÁN LUẬT QUẢN LÝ NGOẠI THƯƠNG: GIẢI TRÌNH NHIỀU VẤN ĐỀ XUNG QUANH HOẠT ĐỘNG HẢI QUAN

(HQ Online)- Chiều nay 20/3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Quản lý ngoại thương. 

Thứ trưởng Vũ Thị Mai phát biểu tại buổi thảo luận.

Không điều chỉnh các trường hợp ngoại lệ

Trình bày báo cáo, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết: Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội đã thảo luận tại tổ và hội trường về dự án Luật Quản lý ngoại thương. Đa số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và nhất trí với nội dung cơ bản của dự án Luật do Chính phủ trình, đồng thời, đóng góp nhiều ý kiến cho dự án Luật. 

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật gồm 8 Chương và 117 điều, trong đó thêm hai điều, gộp hai điều thành một điều và bổ sung một số điểm, khoản và gửi xin ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội.

Trong các nội dung giải trình, tiếp thu có nhiều nội dung liên quan đến công tác quản lý hải quan.

Cụ thể, theo ông Thanh, có ý kiến đề nghị rà soát quy định về các trường hợp ngoại lệ hạn chế xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu tại Điều 17 nhằm tránh tạo cách hiểu quy định không minh bạch, hạn chế quyền tự do kinh doanh và bổ sung thêm xuất khẩu, nhập khẩu phi thương mại (hàng hóa viện trợ, hàng hóa cho, tặng…). 

Thực chất nội dung này không được điều chỉnh trong dự thảo Luật do việc quản lý hàng hóa viện trợ, nhân đạo, hành lý cá nhân, hàng hóa của cá nhân thuộc diện miễn trừ ngoại giao hiện thực hiện theo Luật Hải quan tại Mục III Chương III và các văn bản hướng dẫn.

Vì vậy, Điều 17 dự thảo Luật quy định các trường hợp không cần thiết áp dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu là: miễn áp dụng các biện pháp hạn chế này đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của khu hải quan riêng và không áp dụng đối với trường hợp xuất khẩu, nhập khẩu phi thương mại nhằm tạo thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp hoạt động trong khu hải quan riêng hoặc các doanh nghiệp có quan hệ mua bán với các doanh nghiệp thuộc khu hải quan riêng thông qua miễn áp dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu cũng như xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa phi thương mại.

Ý kiến khác cho rằng khoản 4 Điều 3 quy định khu vực hải quan riêng là khu vực có quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu với các khu vực khác trong nội địa, trong khi Điều 56, 57 và Điều 68 quy định không áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương đối với hàng hóa đưa từ nội địa, nước ngoài vào khu vực hải quan riêng và hàng hóa mua bán, vận chuyển giữa các khu hải quan riêng trong lãnh thổ Việt Nam.

Lý giải điều này, ông Thanh nêu: Quy định tại các điều 57, 58 và Điều 59 của dự thảo Luật không thể hiện khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu đã được quy định tại Điều 28 Luật Thương mại mà chỉ quy định việc miễn áp dụng các biện pháp quản lý ngoại thương đối với các trường hợp quy định tại các điều này. 

Việc đưa hàng hóa từ nội địa vào khu vực hải quan riêng vẫn là mối quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu và vẫn phải làm thủ tục xuất nhập khẩu tại chỗ theo quy định của pháp luật về hải quan.  Do vậy, đề nghị giữ như quy định tại dự thảo Luật.

Thận trọng rà soát

Tham gia thảo luận tại phiên họp, Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai đề nghị rà soát quy định “khu vực hải quan riêng” và lý giải cụ thể sự khác nhau của khu này với khu phi thuế quan tại Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, tránh cùng một khu mà có hai tên gọi.

Giải đáp, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh cho biết: Khu phi thuế quan quy định tại Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là khu “có ranh giới địa lý xác định, ngăn cách với khu vực bên ngoài bằng hàng rào cứng, bảo đảm điều kiện cho hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan của cơ quan Hải quan và các cơ quan có liên quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và phương tiện, hành khách xuất cảnh, nhập cảnh”.

Trong khi đó, khu vực hải quan riêng trong dự thảo Luật này là khu vực địa lý xác định trên lãnh thổ Việt Nam được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Việt Nam là thành viên, có quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa với phần lãnh thổ còn lại và nước ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu. Hai khái niệm có sự khác nhau và có thể phân biệt.

Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng- An ninh Võ Trọng Việt và nhiều thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội đánh giá, dự thảo Luật lần này tiếp thu chỉnh lý rất tốt, nếu luật này đi vào thực tiễn thì chắc chắn sẽ được nhân dân ủng hộ vì các quy định đã khá rõ ràng, không rườm rà phức tạp. Tuy nhiên, Ban soạn thảo cần rà soát lại để cụ thể hơn một số quy định về phí đường bộ, phí bến bãi, tránh gây khó khăn cho doanh nghiệp.

Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu đề nghị làm rõ quy định về phát triển ngoại thương thông qua xúc tiến thương mại, đề nghị nói rõ hơn, bổ sung thêm quy định xúc tiến thương mại nước ngoài tại Việt Nam.

Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Nguyễn Thúy Anh đề nghị rà soát lại các quy định trong luật và các Luật khác có liên quan đề tránh sự mâu thuẫn trong các quy định của dự thảo Luật.

Kết luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển nêu rõ, với tinh thần thận trọng, Thường vụ Quốc hội đề nghị ban soạn thảo tiếp tục rà soát để đảm bảo thống nhất cao với các Luật hiện hành như Luật Hải quan, Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu… để tránh mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lắp. Luật vẫn còn những xung đột ngôn từ chưa rõ, chưa sát cần phải rà soát lại như điều 76, điều 86, điều 113… trong dự thảo Luật.

Các quy định về chính sách biên mậu Điều 54 và 55 dự thảo Luật khá mở tạo quyền cho Chính phủ linh hoạt xử lý, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đề nghị cần có sự thống nhất trong thực hiện, tránh quy định “lúc lỏng quá, lúc quá chặt” gây khó khăn cho doanh nghiệp, người dân.

Hồng Vân

NỘP THUẾ ĐIỆN TỬ: HẢI QUAN SẼ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP LẬP CHỨNG TỪ NỘP TIỀN

(HQ Online)- Theo chương trình triển khai các đề án trọng tâm của Tổng cục Hải quan, đến tháng 8/2017 ngành Hải quan sẽ triển khai thực hiện hỗ trợ DN nộp tiền trực tiếp tại cổng thanh toán điện tử hải quan (24/7). Điều này đồng nghĩa với việc, cơ quan Hải quan sẽ trực tiếp hỗ trợ DN lập chứng từ nộp tiền từ những dữ liệu gốc, để hạn chế những sai sót trong thủ tục chuyển tiền.

Đến tháng 8/2017 ngành Hải quan sẽ triển khai thực hiện hỗ trợ DN nộp tiền trực tiếp tại cổng thanh toán điện tử hải quan 24/7. (Ảnh: Hoạt động nghiệp vụ hải quan tại Cảng Cái Lân- Quảng Ninh). Ảnh: T.Trang.

Theo quy định hiện hành tại Thông tư 184/2015/TT-BTC hướng dẫn về  thủ tục về kê khai, bảo lãnh tiền thuế, thu nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt, tiền phí, lệ phí, các khoản thu khác, đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh và phương tiện xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh thì DN dù ở bất cứ đâu, thời điểm nào người nộp thuế cũng có thể kê khai nộp tiền qua kênh giao dịch điện tử của ngân hàng khi kết nối với mạng internet, không phải đến quầy giao dịch. Trường hợp người nộp thuế sử dụng bảo lãnh chung bằng điện tử sẽ chủ động thời gian làm thủ tục hải quan, hoàn thành nghĩa vụ thuế bằng bảo lãnh tiền thuế mọi lúc, mọi nơi, không kể ngày nghỉ, ngày lễ ngân hàng không làm việc.

Tuy nhiên, thời gian qua, những vướng mắc mà một số tỉnh, thành phố và một số ngân hàng phối hợp thu NSNN gặp phải trong quá trình thực hiện thu, nộp thuế qua ngân hàng theo Thông tư 184/2015/TT-BTC là do những lỗi về đường truyền, lỗi hệ thống và vẫn có tình trạng DN và ngân hàng cập nhật thông tin chưa chuẩn xác.

Vì vậy, để tạo thuận lợi hơn nữa cho người nộp thuế hạn chế lỗi ở khâu kê khai, bà Nguyễn Thị Thanh Hương- Phó trưởng Phòng Dự toán- Quản lý thu ngân sách Cục thuế XNK (Tổng cục Hải quan) cho biết, thay vì DN phải lập chứng từ nộp tiền tại các ngân hàng thương mại và các ngân hàng phải tự tra cứu thông tin của DN trên hệ thống của Hải quan như hiện nay thì DN sẽ trực tiếp kê khai và lập chứng từ nộp tiền trên hệ thống của cơ quan Hải quan tại Cổng thông tin điện tử hải quan. Theo đó, cơ quan Hải quan thay vì chờ thông tin hệ thống của ngân hàng sẽ trực tiếp tiếp nhận thông tin từ DN và chuyển thông tin nộp tiền của DN sang ngân hàng.

Cùng với đó, Tổng cục Hải quan cũng đề xuất với Kho bạc Nhà nước chuyển khâu xác định mục lục ngân sách do cơ quan Hải quan xác định và lập, chuyển trực tiếp sang Kho bạc thay vì giao cho ngân hàng lập như hiện nay.

Theo bà Hương phân tích, thực hiện theo hướng trên, thông tin kê khai của người nộp thuế sẽ chuẩn xác bởi được lập từ cơ sở dữ liệu gốc của cơ quan Hải quan, các ngân hàng thương mại sẽ giảm bớt được các thao tác cập nhật thông tin, hạn chế tối đa và xử lý được các sai sót, vướng mắc trong việc truy vấn dữ liệu về tờ khai hải quan của người nộp thuế do chưa được cập nhật đầy đủ hoặc cập nhật chưa đúng, hoặc sai so với thông tin truy vấn tại cổng thông tin từ Tổng cục Hải quan; đồng thời cũng tạo thuận lợi hơn cho DN trong quy trình nộp thuế điện tử hiện nay, giảm thêm được thời gian nộp thuế.

Hiện nay, để triển khai quy định này, Cục Thuế XNK và Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan đang xây dựng các công đoạn, chuẩn bị cơ sở hạ tầng cũng như bổ sung cơ sở pháp lý bằng cách đề xuất sửa đổi, bổ sung Thông tư 184/2015/TT-BTC. Theo kế hoạch đề ra, đến tháng 8/2017 quy định nộp tiền trực tiếp tại cổng thanh toán điện tử hải quan (24/7) sẽ được Tổng cục Hải quan triển khai thực hiện.

Đến nay, Tổng cục Hải quan đã ký thỏa thuận hợp tác thu thuế XNK bằng điện tử với 33 ngân hàng, với số thu chiếm khoảng 90% đến 92% tổng số thu NSNN của cơ quan Hải quan. Theo phản hồi từ các ngân hàng thương mại, cộng đồng DN và hải quan các tỉnh, thành phố cho thấy, các quy định về nộp thuế theo Thông tư 184 đã tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế trong việc đơn giản hóa các thủ tục hành chính, hạn chế tối đa thời gian làm thủ tục hải quan, đặc biệt là thời gian thông quan khi nhận được thông tin đã nộp thuế, giúp DN giảm chi phí phát sinh. Bên cạnh đó, người nộp thuế cũng không phải ghi các thông tin khó xác định trên giấy nộp tiền như mã tài khoản thu NSNN, mã cơ quan thu, mã Kho bạc hạch toán thu (các thông tin này sẽ do các cơ quan thu và cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm xác định)… Vì vậy mà hạn chế được các sai sót.

Bên cạnh đó, việc thực hiện nộp thuế theo quy định tại Thông tư 184/2015/TT-BTC đã giúp rút ngắn được thời gian chuyển chứng từ từ Kho bạc Nhà nước sang cơ quan Hải quan, giúp giảm nợ nhanh chóng cho DN mà còn giảm thời gian lưu kho bãi, giải phóng hàng hóa nhanh chóng, giảm thiểu tối đa các chi phí phát sinh. Cùng với đó, công tác phối hợp giữa cơ quan Hải quan với các ngân hàng thương mại cũng tốt hơn nên giải quyết vướng mắc, sai sót về tài khoản nộp thuế cũng được nhanh chóng hơn.

Việc nộp thuế điện tử được ngành Hải quan thực hiện từ năm 2010, sau đó là sự ra đời của Thông tư số 126/2014/TT-BTC ngày 28/8/2014 của Bộ Tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong việc nộp thuế, góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thời gian thông quan hàng hóa, giảm thời gian và chi phí cho hải quan và DN không phát sinh nợ thuế sau khi DN đã nộp tiền. Thời điểm đó, số thu NSNN qua ngân hàng chiếm khoảng 63,5% trong tổng số thu toàn ngành.

Để tiếp tục triển khai cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thu NSNN, Tổng cục Hải quan đã trình Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 184/2015/TT-BTC thay thế Thông tư số 126/2014/TT-BTC phù hợp với Luật Hải quan sửa đổi, thực hiện kê khai điện tử quan mạng, thực hiện nộp thuế điện tử. Với những thuận lợi như: Người nộp thuế có thể ở nhà hoặc bất cứ đâu, thời điểm nào cũng có thể kê khai nộp tiền qua kênh giao dịch điện tử của ngân hàng, người nộp thuế sử dụng bảo lãnh chung bằng điện tử sẽ chủ động thời gian làm thủ tục hải quan, hoàn thành nghĩa vụ thuế bằng bảo lãnh tiền thuế mọi lúc, mọi nơi, không kể ngày nghỉ, ngày lễ ngân hàng không làm việc; cho phép thực hiện thu phí, lệ phí của các bộ, ngành tham gia cơ chế một cửa quốc gia…

Thu Trang

BỔ SUNG KHAI BÁO HẢI QUAN ĐỂ QUẢN LÝ THEO CHUỖI

(HQ Online)- Để quản lý hải quan hiện đại (quản hàng hóa XNK theo chuỗi), tạo thuận lợi cho DN, ngăn chặn gian lận thương mại, dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 38/2015/TT-BTC lần này, phần khai báo hải quan sẽ có thay đổi để phù hợp với thực tế.  

Hàng lậu do Cục Hải quan TP.HCM phát hiện tại cảng Cát Lái. Ảnh: T.H

Theo quy định tại Điều 18 Thông tư 38 hướng dẫn các nguyên tắc khai báo đối với tờ khai hải quan tại khâu trong thông quan và Phụ lục II hướng dẫn khai báo các chỉ tiêu thông tin trên tờ khai hải quan, việc khai báo thông tin manifest đối với hàng nhập khẩu và thông tin hàng hóa được xếp lên phương tiện vận tải xuất cảnh không có kết nối với tờ khai hải quan. 

Theo Phó Cục trưởng Cục Giám sát quản lý về hải quan Âu Anh Tuấn, quy định trên dẫn đến bất cập khi thực hiện đối với cơ quan Hải quan: Chưa phù hợp với cách quản lý hải quan hiện đại là quản lý theo chuỗi. Đó là, đối với hàng hóa xuất khẩu, quản lý từ khi có dự kiến xuất khẩu đến khi hàng hóa thực tế xếp lên phương tiện vận tải xuất cảnh; Đối với hàng hóa nhập khẩu, quản lý từ khi hàng hóa dự kiến nhập khẩu cho đến khi thông quan hàng hóa.

Do đó, việc quy định như hiện hành khó tiếp tục đột phá cải cách hiện đại hóa hải quan. Chẳng hạn, rất khó triển khai việc trao đổi, kết nối thông tin với doanh nghiệp cảng. Không ngăn chặn được các hành vi lợi dụng để thực hiện gian lận và buôn lậu, làm giảm hiệu quả quản lý hải quan do phát sinh tờ khai ảo, tờ khai trùng để lựa chọn phân luồng; khó kiểm soát các tờ khai có chung vận đơn để xác định hành vi gian lận về lượng khi khai báo…

Bất cập khi thực hiện đối với doanh nghiệp, chưa hỗ trợ cho người khai hải quan trong việc tra cứu, quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Cụ thể, không hỗ trợ tra cứu được các thủ tục liên quan đến hàng hóa đã được bên liên quan thực hiện hay chưa (hãng tàu, forwarder, DN cảng…) để xác định chính xác lỗi (nếu có) là do đối tượng nào gây ra và trạng thái chính xác của hàng hóa đang ở vị trí nào trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan.

Không hỗ trợ kết nối thông tin tờ khai với thông tin cấp phép của các cơ quan quản lý chuyên ngành…Chưa tạo tiền đề để hỗ trợ người khai hải quan xử lý các sai sót trong quá trình khai báo như: Không hỗ trợ người khai trong việc phát hiện và khai trùng thông tin tờ khai (với những doanh nghiệp không cố tình thực hiện).

Bên cạnh đó, quy đinh hiện hành cũng phát sinh bất cập đối với DN kinh doanh kho bãi: Việc kết nối được thông tin hàng hóa dỡ xuống bãi cảng với thông tin được phép đưa qua khu vực giám sát thiếu chính xác, dẫn đến: Khó áp dụng với toàn bộ hình thức vận chuyển hàng hóa, hiện tại chỉ áp dụng được với hàng hóa vận chuyển bằng container (các loại khác không có số quản lý hàng hóa duy nhất để nhận biết); Không làm tăng cường hiệu suất khai thác cảng do thông tin trao đổi không đầy đủ và chính xác, DN không thể chủ động việc xếp/dỡ. Khó áp dụng quy trình thực hiện thủ tục lấy hàng online của cảng, dẫn đến khó có thể giảm thời gian thông quan của hàng hóa.

Với những bất cập nêu trên, cần thiết phải thay đổi cách thức khai báo để kết nối được các khâu trong việc thực hiện thủ tục hải quan của các đối tượng khác nhau (manifest cho hãng tàu khai, tờ khai do người khai hải quan khai, thông tin giấy phép do Hệ thống một cửa gửi đến, việc xếp hàng lên phương tiện vận tải do DN cảng thực hiện).

Do đó, dự thảo Thông tư sửa đồi, bổ sung Thông tư 38 dự kiến thay đổi: trong khâu khai báo cần thiết phải có 1 chỉ tiêu thông tin chung kết nối các khâu với nhau, đó là số quản lý hàng hóa duy nhất.

Cụ thể, đối với tờ khai nhập khẩu, sử dụng tiêu chí “số vận đơn”. Theo phân tích của Cục Giám sát quản lý, về ưu điểm, đây là tiêu chí có sẵn trên tờ khai và đã được DN khai báo nên có thể áp dụng ngay; Nhược điểm, để tránh số vận đơn được dùng ở nhiều tờ khai khác nhau cần quy định để mỗi tờ khai chỉ có một số vận đơn để đảm bảo tính duy nhất.

Theo đó, bổ sung quy định khi khai hải quan tại Điều 18 như sau: Một vận đơn chỉ được khai báo trên một tờ khai hải quan. Trường hợp một vận đơn khai báo cho nhiều tờ khai hải quan thì phải đăng ký tách vận đơn với cơ quan Hải quan trước khi đăng ký tờ khai hải quan. Việc tách vận đơn sẽ do DN tự xác định số lượng vận đơn cần tách, số lượng hàng tương ứng trên mỗi vận đơn, cơ quan Hải quan không kiểm tra và phê duyệt.

Đối với tờ khai xuất khẩu, do không có tiêu chí sẵn có trên tờ khai xuất khẩu có khả năng nối kết giữa khâu trước, trong thông quan và khâu đưa hàng qua khu vực giám sát để xếp lên phương tiện vận tải nên cần phải đưa ra một số quản lý hàng hóa duy nhất. 

Để đảm bảo tính duy nhất, số quản lý này sẽ do Hệ thống hải quan cấp tự động khi DN thông báo có lô hàng xuất khẩu.

Lê Thu

CẢNH BÁO DOANH NGHIỆP VỀ NHIỀU HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT HẢI QUAN

(HQ Online)- Cục Hải quan TP.HCM vừa đưa ra cảnh báo các hành vi vi phạm trong quá trình khai báo và làm thủ tục thông quan hàng hoá. Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Hoàng Việt Cường, việc thông tin, cảnh báo này sẽ giúp cho các doanh nghiệp khác tránh mắc phải trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan, thông quan hàng hóa.

Công chức Hải quan quản lý hàng đầu tư- Cục Hải quan TP.HCM hướng dẫn thủ tục cho DN. Ảnh: Thu Hòa.

Theo Cục Hải quan TP.HCM, thời gian qua, một số tổ chức, cá nhân (dịch vụ khai thuê hải quan, nhân viên đại lý hải quan) có thủ đoạn lợi dụng, sử dụng chữ ký số của các doanh nghiệp có ý thức chấp hành tốt pháp luật để thực hiện việc khai hải quan trên hệ thống VNACCS trong khi chưa được sự đồng ý của doanh nghiệp XNK với mục đích buôn lậu, gian lận thương mại như: Xuất khẩu, nhập khẩu hàng cấm; Khai báo thông tin hàng hoá sai so với thực tế nhằm trốn lậu thuế, hoặc nhằm mục đích trốn tránh chính sách quản lý hàng hoá như hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu phải có giấy phép, hàng hoá phải đáp ửng đủ yêu cầu về điều kiện, tiêu chuẩn, qui chuẩn kỹ thuật.

Vì vậy, để hoạt động khai báo tuân thủ đúng pháp luật, Cục Hải quan TP.HCM đề nghị các doanh nghiệp XNK, quản lý chặt chẽ chữ ký số của mình tránh bị lợi dụng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp lựa chọn, và sử dụng dịch vụ khai thuê hải quan là các đơn vị khai thuê có uy tín, có nhiều kinh nghiệm khai báo (như các Đại lý khai thuê hải quan đã được Tổng cục Hải quan cấp phép theo qui định).

Bên cạnh đó, các vi phạm qui định về thủ tục hải quan, như: Không khai, không nộp, không xuất trình và không cung cấp thông tin hồ sơ hải quan đúng thời hạn qui định cũng khiến các DN bị lập biên bản vi phạm hành chính và bị xử lý theo quy định.

Vi phạm qui định về khai thuế: Không khai hoặc khai sai về tên hàng theo định danh hàng hoá XNK Việt Nam do Bộ Tài chính qui định, khai không đầy đủ tên hàng dẫn đến không phân biệt được hàng này với hàng khác (ví dụ như doanh nghiệp khai báo là mặt hàng A (có thuế xuất NK là 0%, không phải là mặt hàng quản lý về chính sách), nhưng qua kiểm tra thực tế là mặt hàng B và mặt hàng B này có thuế suất nhập khẩu là 5%, 10%… và cần phải có giấy phép khi nhập khẩu, hoặc cần phải đáp ứng yêu cầu về điều kiện, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật); Khai sai về chủng loại (khai báo là chủng loại A với mức giá thấp nhưng thực tế hàng hoá là chủng loại B có mức giá cao hơn); Khai thiếu về số lượng; Khai sai về khối lượng; Khai sai về chất lượng (khai báo hàng hoá của Trung Quốc nhưng thực tế hàng hoá của Nhật, Mỹ,…); Khai sai (thấp) về trị giá hàng NK, hoặc không khai báo các khoản phải cộng theo qui định.

Ngài ra, doanh nghiệp còn khai sai mã số hàng hoá, dẫn đến thay đổi thuế suất (khai báo là mã số hàng hoá A có thuế suất là 5%, nhưng thực tế là mã số hàng hoá là B có thuế suất là 10%); khai sai thuế suất, xuất xứ hàng hóa; Khai báo là hàng mới nhưmg thực tế là hàng cũ dẫn đến hàng thực nhập là hàng cấm (ví dụ: thời gian qua có một số DN nhập khấu hàng máy tích xách tay, Ipad khai báo là hàng mới 100% nhưng thực tế kiểm tra là hàng Refurbish- có nghĩa là hàng tân trang- là các sản phẩm CNTT đã qua sử dụng thuộc Danh mục hàng cấm nhập khẩu theo qui định)… Các hành vi khai sai nêu trên dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, được hoàn.

Vi phạm qui định về giám sát hải quan: Tự ý phá niêm phong hải quan (đặc biệt lưu ý đối với các doanh nghiệp làm thủ tục loại hình quá cảnh, chuyển cửa khẩu, tạm nhập- tái xuất); Không bảo quản nguyên trạng hàng hoá đang chịu sự giám sát hải quan; hoặc hàng hoá được giao bảo quản theo qui định của của pháp luật chờ hoàn thành việc thông quan; Tự ý tiêu thụ hàng hoá đang chịu sự giám sát hải quan; Tự ý tiêu thụ hàng hoá được giao bảo quản chờ hoàn thành việc thông quan theo qui định (các DN lưu ý phải chờ đến khi có kết luận của Cơ quan kiểm tra chuyên ngành/ Cơ quan giám định và sau khi cơ quan Hải quan thực hiện việc thông quan mới được tiêu thụ hàng hoá để tránh việc vi phạm do tự ý tiêu thụ).

Vi phạm về qui định chính sách quản lý hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh:  xuất khẩu, nhập khẩu, đưa vào Việt Nam hàng hoá thuộc danh mục cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu. Chẳng hạn, khai báo hàng hoá mới 100% nhưng thực tế là hàng cấm, hoặc khai báo hàng không phải là hàng cấm nhưng thực tế là hàng cấm như khai báo là máy thuỷ, máy nông ngư cơ nhưng thực tế là động cơ ôtô đã qua sử dụng là hàng thuộc Danh mục hàng cấm nhập khẩu. Khai báo hàng hoá không yêu cầu phải có giấy phép, không yêu cầu đáp ứng về điều kiện, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật nhưng thực tế là hàng hoá phải có giấy phép khi nhập khẩu, phải đáp ứng yêu cầu về điều kiện, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật (ví dụ: khai báo là vải nhưng thực tế lại nhập sữa, hoặc nhập các loại mặt hàng phải có giấy phép, phải đáp ứng yêu cầu về điều kiện, tiêu chuẩn, qui chuẩn kỹ thuật khi nhập khẩu).

Một số trường hợp vi phạm bị cưỡng chế thuế, như: Đề nghị thời gian tham vấn nhưng không đến tham vấn đúng thời gian đã yêu cầu dẫn đến phát sinh tiền thuế phải nộp và có thể bị cưỡng chế thuế. Nhận được Quyết định kiểm tra sau thông quan tại trụ sở hải quan nhưng không cử người đến làm việc đúng thời gian đã yêu cầu dẫn đến phát sinh tiền thuế phải nộp và có thể bị cưỡng chế thuế.

Lê Thu